Dâng hương

Dâng hương

Một cổ truyền có thể nói là bất di bất dịch của người Việt Nam theo đạo Ông Bà, là trên bàn thờ, mỗi tối và sáng, cùng những ngày giỗ, đều có đốt nhang. Cũng có nhiều nơi, song song với sự đốt nhang, còn giữ thói quen đốt giấy tiền vàng bạc, hoặc giấy áo, đồ mã.v.v…, vì thế, đốt nhang một ý nghĩa cao sâu của nó, mà lại bị ghép vào hành vi mê tín dị đoan.

Như ở nhiều nơi : Lăng, Miếu, đền thờ các bậc anh hùng dân tộc, sự đốt nhang đã bị quá lạm dụng, và người đốt nhang (hay dâng hương) đã quên hẳn ý nghĩa chân thật của hành động mình, mà rốt cuộc chỉ có một sự thi đua phung phí tiền bạc bằng cách đem nhiều bó nhang ra đốt giữa trời để cầu khấn vái van về tư lợi.

Ý nghĩa chính của thờ phượng, lễ bái, cúng dường, hương linh cha mẹ, ông bà, tổ tiên, Thần thánh,… là nêu lên sự tôn sùng, ngưỡng mộ, tri ân, và lòng mong muốn noi theo gương sáng của các Ngài.

Như vậy, không phải đốt thật nhiều mới tỏ lòng thành kính của mình, mà nên nhớ “vật chất” (hương) là tượng trưng cho tinh thần (lòng thành), và đốt một cây nhang, không được nói là phi ân, bội nghĩa, hoặc trái lại phung phí đốt nhiều cũng không thể gọi được là nồng nhiệt, thiết tha.

Mà hành động được chứng minh, chính khi tâm được chân thành. Thế nên, dâng hương là một việc rất dễ làm, vì một em bé chín mười tuổi có thể dâng hương được, nhưng nó trở thành vô ích nếu việc làm sai lạc ý nghĩa, và sự đốt nhang (dâng hương) không thể mượn người thay được, vì tâm thành không thể xẻ chia ai.

Tự tay mình dâng hương để tự tâm mình tỏ sự thành kính. Người Phật tử ngày ngày đều dâng hương cúng dường Phật, nhưng do sự hiểu biết của mình mà hành động dâng hương có ảnh hưởng sâu xa hoặc cạn cợt trong tâm hồn.

Cũng như vừa nói trên, dâng hương (vật chất) tượng trưng cho lòng thành kính của mình (tinh thần). Vậy lòng thành kính không có bị kiềm chế trong số lượng hoặc phẩm của hương mà thông thường người dâng hương quan niệm, nhưng ảnh hưởng chơn thật chính là ở tấm lòng.

Người giàu có tiền nhiều có thể dâng hương thơm đắt tiền, nhưng nếu tâm tánh tà dại, thì đâu bằng người nghèo chỉ cúng có một cây nhang thường, nhưng rất quý, vì lòng thiết tha chơn chánh.

Đạo Phật dạy : khi dâng hương, ngoài sự tưởng, nếu chú trọng về phương diện lý. Phật tử nên cố gắng thực hiện được năm phần diệu hương này để cúng Phật, thì đặng công đức vô biên.

Diệu hương thứ nhất dâng cúng Phật là Giới hương.

Dùng hương trầm quý báu đốt cúng thì hành động này cả tâm thiện và ác đều có thể thực hiện đặng. Do đó, lấy đâu để làm mực thước đo sự chánh tà. Nhưng nhờ trì giới trang nghiêm mà chứng, chắc người thật tâm dùng diệu hương cúng dường.

Hương trần gian chỉ phảng phất mùi thơm trong gang tấc, và cũng tan mất đi trong khoảng không gian. Thế nên, sự cúng dườngg có sanh có diệt, có còn có mất, chưa được phổ biến cùng nơi.

Tâm hồn trì giới trang nghiêm ảnh hiện ra trăm nghìn vạn ức mùi hương vi diệu. Nào hương trầm thượng hảo của bác ái, từ bi, của thương người lợi vật, chỉ hương trầm này mới có thể đánh tan bao nhiêu mùi ác tâm của thế sự và hòa cùng toàn thể pháp giới mười phương.

Hương giới là hương mà Đức Bổn-sư nhắc nhở đầu tiên trong những lời di chúc trước khi Ngài nhập Niết-bàn.

Thế sự ngày nay vẫn chìm đắm trong biển đau thương tràn ngập, phải chăng khuôn khổ giới luật không còn được giữ gìn đầy đủ.

Chính thế, con người vì mong ước sự tự do của kiếp sống nên đập phá tan tành những đường lối tốt đẹp của trật tự trang nghiêm, để bước sang qua tự do hành động của mình, vì thế nên bao nhiêu nghiệp ác : sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ,… đem lại tai hại đồng khắp.

Để đem lại niềm vui tươi an hòa cho tất cả, Phật tử nguyện giữ giới và cúng dường chư Phật món diệu hương này.

Món diệu hương thứ hai cúng dường Phật chính là Định hương.

Hằng ngày vì tranh đấu, vật lộn với đời sống khó khăn vất vả để được tồn tại, con người nào được yên tâm định tĩnh trong giây lâu. Hết suy nghĩ việc này, lại bị việc khác chi phối. Tâm con người nghĩ ngợi mông lung. Do đó Kinh dạy : tâm chao động như ngựa, như vượn – “Tâm viên ý mã”. Sống trong loạn động làm sao được hạnh phúc. Thế nên muốn được đời sống an nhiên tự tại, thì người Phật tử nên dùng định hương làm món cúng dường. Sống giữa trần gian đầy dẫy dục lạc, con người giờ phút nào cũng có thể bị lôi cuốn, nhiễm mê. Những sự giết chóc, tự sát, cuồng loạn, ganh tị, ghét ghen, đều do con người mất định tĩnh, để những khao khát, ham muốn xâm chiếm tâm hồn.

Tâm loạn động phóng ra những mùi ác độc, đem nhiều đau khổ chúng sanh. Để tạo hạnh phúc cho mình và tất cả, Phật tử nên cúng định hương, chính là bằng phút nào cũng làm cho tâm tư lắng xuống.

Cúng giới hương, định hương, là hai món diệu hương nhứt nhì trong năm món diệu hương. Nhưng muốn không thối chuyển, muốn bền chắc trong sự cúng dường, người Phật tử không quên lưu tâm vào ba món sáng tỏ : văn huệ, tư huệ, tu huệ.

Văn huệ là lắng nghe những lời giáo huấn quý báu của chư Phật và Thánh Hiền. Tư huệ là đem những lời giáo huấn quý báu ấy ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là luống dối, để khỏi lầm lạc vào đường tà. Tu huệ là quyết tâm thực hành những điều đúng đắn, sáng suốt.

Cũng đồng tai nghe, mà ngoài đời, người ưa nghe những lời êm dịu, cám dỗ, quyến rũ, khen ngợi, nịnh bợ.

Nhưng những lời thân mật đầu môi, những tiếng bùi tai chót lưỡi, những câu trau chuốt bóng bẩy đều là những lời không chân thật. Nếu nghe và vui mừng theo, thì con người sẽ mê nhiễm và bị bao nhiêu điều tai hại.

Để đổi lại cái nghe sai lầm ô trược, người Phật tử nên hướng cái nghe về lời phải việc lành, và như thế mới hiệp với lẽ Chơn và Thiện của Đạo Phật.

Đã biết sẽ có nhiều khó khăn trong sự thay đổi của cái nghe vọng thành chơn, nhưng không một lầu đài tốt đẹp nào được xây dựng thành tựu dễ dàng và mau chóng.

Phải nhẫn nại trì chí.

Chư Phật cùng Hiền Thánh Tăng đã được an vui tự tại, do nhiều công phu điêu luyện cái nghe. Phật tử nên noi gương, dứt cái nghe ô nhiễm, không để nó nhận chìm và quay về sống với cái nghe sáng tỏ, cái nghe đạo đức, đó là công việc đầu tiên trong Tam huệ, đó là món diệu hương cúng dường.

Cũng đồng ý thức nghĩ suy, nhưng người đời mãi so hơn, tính thiệt, chỉ lo lợi mình trước người. Những mưu mô, khôn ngoan xảo quyệt, những tính toan sâu độc tổn nhơn đều đem thí thế hằng ngày. Lòng ích kỷ không ranh giới đã cám dỗ, xúi dục người bất chấp lẽ nhân đạo, và sự đấu tranh giặc giã, giết chóc vẫn tiếp tục, chính do cái nghĩ suy mê mờ mà ra cả.

Noi gương Đức Bổn-sư, người Phật tử không miệt mài tính toan trong ngũ dục, nhưng lúc nào cũng gia tâm nghiên cứu chơn lý vũ trụ để trước tiên tự sửa mình, sau lại độ người, và chỉ có cái sống định tĩnh mới mong phá trừ vô minh, thấy rõ bổn tánh, cùng thể nhập với chư Phật mười phương.

Phật tử luôn luôn lấy cái suy nghĩ sáng suốt làm món diệu hương cúng dường chư Phật.

Nghe sáng tỏ, nghĩ suy sáng tỏ, nhưng không đem ra thực hành, thì nghe và nghĩ suy thành vô bổ.

Đức Bổn-sư xưa kia thành đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác, chính nhờ tu. Có tu, có sửa, có hoán cải tâm vọng trở thành chơn, và trong tất cả mùi thơm, dù cho mùi hương chiên đàn, cũng không thể so sánh được với hương diệu huyền của Đạo đức.

Chư Phật ra đời từ vô lượng kiếp, nhưng hiện tiền hương diệu lý của các Ngài vẫn còn tràn ngập mười phương.

Như thế, muốn cúng dường Phật, nên cúng dường tu huệ. Món hương cúng dường thứ tư của người Phật tử là Giải thoát hương.

Giải thoát hương là quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi.

Kinh dạy rằng : chúng sanh chưa thoát đặng sanh, già, bệnh, chết, còn lên xuống ba cõi, lẫn lộn trong sáu đường, vì chúng sanh chưa phá đặng bệnh chấp : Ngã và Pháp.

Chấp ngã, chính chấp thật có ta, có thật thân hình tứ đại. Nhưng thân tứ đại là thân giả tạm, cái ta không thật, do ngũ uẩn hợp thành. Chúng sanh vì chấp ngã nên bảo vệ và cung phụng nó. Do đó mới có những nghiệp dâm – sát – đạo – vọng đầy dẫy. Muốn cúng dường Pháp thân thanh tịnh Phật, Phật tử phải luôn quán vô ngã, và không nhận chiếc thân tứ đại này là mình.

Được như thế mới mong tránh tạo các nghiệp ác, không còn bị ba độc chuyển xây, và lúc bấy giờ hương diệu huyền của thoát ly luân hồi sanh tử sẽ bủa giăng cùng khắp.

Phật tử cúng dường giải thoát hương bằng phá trừ vọng chấp cái ta. Nhưng thoát đặng bệnh này, chúng sanh cũng chưa hoàn toàn nhập đặng cảnh giới tự tại vô ngại của chư Phật, vì còn bệnh chấp Pháp bao vây.

Chấp Pháp chính là còn chấp những món như đất, nước, gió, lửa là thật, còn thấy vui buồn sướng khổ là thật. Thấy như thế là còn kẹt trong vòng sai lạc của tri kiến chúng sanh. Sự vật nào có chi là thật. Chính nó hiện ra “như vậy” dưới tầm nhận thức của con người. Với các loài khác, sự vật không còn giữ nguyên trạng thái như con người quan niệm.

Ví như nước đối với loài người, nhưng đối với loài cá thì nước đâu phải là nước mà chính là lâu đài của chúng. Vậy muốn sự vật do nhận thức như thế nào, thì nó hiện ra như thế đó, nào đâu có thật, và cái vui của người này chính là cái khổ của kẻ kia. Thế nên Pháp cũng như ngã đều là giả dối, không thật thể, chỉ toàn là danh từ bóng dáng mà thôi.

Phật tử sẽ sống một đời sống an nhiên khi thay đổi đặng quan niệm sai lầm từ vô thỉ. Chư Phật thị hiện ra đời cũng vì một hoài bão lớn lao : làm cho chúng sanh nhập đặng “tri kiến Phật” tức sự hiểu biết sáng suốt, dùng như thật, để cắt đứt xiềng xích của luân hồi.

Đập phá đặng hai món chấp Ngã và Pháp tức Phật tử cúng dường : giải thoát và giải thoát tri kiến hương.

Như vậy, dâng hương cúng dường không chỉ biểu dương ở mặt vật chất, mà ăn sâu vào mặt tinh thần, vì dâng hương có sự và lý.

Nương nơi hương vật chất, Phật tử đề khởi, phát huy hương tinh thần. Chính phần hương này mới hợp với hương diệu huyền của Đạo lý, hương bất diệt của mười phương.

Thiếu hương trần gian (nhang) chúng sanh vẫn có thể sống trong thanh bình an lạc, nhưng vắng bóng hương lòng, chúng sanh sẽ phiền não khổ đau.

Vì thế, xưa kia, Thái tử Tất Đạt Đa mới rời bỏ cung điện nguy nga, tầm sư học đạo, và Ngài đã nhận đặng chỉ có gội rửa đặng tấm lòng trần cấu cùng gọt sạch ô nhiễm vô minh, mới có thể đem lại cho mình cùng tất cả hương vị ngọt ngào của giải thoát.

Thế nên, dâng hương chính là tự nhắc mình, bằng sát-na cố gắng thoát, ly cảnh giới nặng nề của dục lạc, đặng thể nhập vào cảnh giới siêu đẳng của tâm linh, và niềm mong ước duy nhất của Phật tử chân thành, phải chăng là nguyện cầu cho vạn vật đều luôn luôn đượm nhuần mùi hương :

“Như như bình đẳng”


Nhuận Chưởng – Tịnh thất Bạch Hoa xuất bản, Hòa Thông Nguyệt ấn tống năm 1963

Ấn Quán Thạnh Mậu 135 Ng văn Học Giađịnh; Giấy phép số 985-HDKDTƯ PI-XB ngày 9 – 5 – 63