Dùng trí tuệ thay thế tiền bạc

Dùng trí tuệ thay thế tiền bạc

Đại sư Tinh Vân một đời ngay trong nguyên tắc xử lý tài vụ, việc trọng yếu nhất chính là “Dùng trí tuệ thay thế tiền bạc”. Phàm việc không nhất định phải dùng tiền bạc để trang nghiêm tất cả, nhưng cần dùng trí tuệ để trang nghiêm thế gian.

Người xưa có một câu tục ngữ: “Có tiền có thể sai quỷ xay bột”, nói rõ cách nhìn của một người. Kỳ thực, một cá nhân bất kể giàu có đến đâu, có lúc tiền tài chẳng phải là thứ vạn năng. Kinh Phật nói: “Tài vật là sở hữu chung của năm nhà”. Năm nhà tức là lửa lớn, nước lớn, trộm cắp, quan lại tham ô và con cháu hư đốn. Năm nhà này đủ khiến tiền tài của chúng ta bị tiêu hủy mất hết. Lại, hà huống tiền bạc cũng không phải là thứ vạn năng. Nhiều tiền có thể mua được tôi tớ, nhưng không mua được duyên với người; nhiều tiền có thể mua được quần chúng, nhưng mua chẳng được lòng được; nhiều tiền có thể mua được cá thịt, nhưng không mua được sự ngon miệng; nhiều tiền có thể mua được lầu cao nhà lớn, nhưng không mua được tự tại; nhiều tiền có thể mua được y phục hoa mỹ, nhưng không mua được khí chất; nhiều tiền có thể mua được cổ phiếu, nhưng không mua được tâm ý đầy đủ; nhiều tiền có thể mua được giường nệm, nhưng không mua được giấc ngủ. Điều trọng yếu nhất chính là – nhiều tiền mua được vật chất thế gian, thậm chí sách vở, nhưng không mua được trí tuệ, nhân đây “trí tuệ” mới là nguồn vốn quý báu nhất của nhân loại.

Văn minh nhân loại sở dĩ ngày đi ngàn dặm, không phải do tiền bạc tạo được mà là kết tinh “trí tuệ” của đông người.

Hơn hai ngàn sáu trăm năm trước, Phật giáo rất coi trọng việc tu hành bằng trí tuệ và gọi trí tuệ tối thượng thừa là Bát-nhã. Trí tuệ thông thường có thiện có ác, nhưng “trí tuệ Bát- nhã” thì thuần thiện vô nhiễm. Trong kinh điển nói “trí tuệ Bát-nhã” như mắt có thể dẫn đạo năm độ còn lại đến bờ kia viên mãn, lại nói “trí tuệ Bát-nhã” là mẹ của chư Phật, vì chư Phật mười phương đều từ trí tuệ Bát-nhã mà đản sanh. Như sở dĩ Văn Thù Bồ tát đứng đầu các Bồ tát, và là thầy của bảy đức Phật, chính là vì Ngài sở trường về “trí tuệ Bát-nhã”. Sở dĩ Xá-lợi-Phất làm đệ tử thủ tọa của Đức Phật, và được làm Sư phụ thế độ cho Sa-di đầu tiên là La-hầu-la, cũng vì Ngài có “trí tuệ Bát-nhã”. Đồng nữ Diệu Huệ có thể được chư đại Bồ tát lễ kính là vì trí tuệ siêu phàm, có thể nói điều người chưa thể nói, bàn những điều người ta chưa thể bàn. Sở dĩ Long Thọ được tôn làm chủ chung cả Tam tông Phật giáo cũng là vì Ngài có trí tuệ hơn người, viết sách lập thuyết, phá tà hiển chánh.

Tôi từ bé sinh trưởng trong gia đình nông thôn nghèo khổ, thường thường áo cơm chẳng đủ, dứt khoát nghĩ đến phải dùng “trí tuệ thay tiền bạc”. Ví như lúc trời hè, cháo để cách ngày đã có mùi thiu, người làng phần nhiều đều dùng lá hẹ bỏ vào trong, nấu lại một lần, là có thể tiêu trừ mùi khó chịu. Cơm rau còn thừa, cũng biết để chỗ mát mẻ, có thể duy trì không hư, ngày thứ hai lại có thể ăn nữa. Dù cho chụm một cây củi, tôi cũng nghĩ làm sao để lửa cháy lâu hơn một chút. Viết một phong thư cũng là đem phong bì cũ đã xài lật ngược ra dùng thêm một lần nữa. Cho đến khi xuất gia học Phật, do ở chỗ chính đang trong thời kỳ khói lửa mịt mù, dân sinh khốn khổ, kinh tế chùa chiền càng thêm túng thiếu. Tăng lữ phần đông phải trải qua cuộc sống thanh bần, vớ, đế giày rách bèn lấy miếng bìa dầy vá lại, áo quần rách một lỗ, lấy giấy báo hồ thành giấy cứng thay vải vá mang lại. Tôi ở trong hoàn cảnh đó học được trí tuệ “lợi dụng vật phế bỏ”.

Như nay tôi thấy người hiện đại, cũng cho là kinh tế phát đạt, đủ phương tiện mua sắm, muốn vật gì, đều là vừa nghĩ đến cần bèn mua ngay. Tôi thường nghĩ nếu như có vật “thay thế” vì sao lại sai lầm để phí tiền chứ! Như đồng soạn viết văn chương trọng ở chỗ trôi chảy thông suốt, biểu đạt được tình ý, tôi không quá tính đến sự đổi chỉnh, nắn nót văn tự. Do đó khi tôi phê sửa bản thảo, nếu như chữ có ý nghĩa tương đồng, có thể thay thế, thì dù cho văn từ đẹp hơn, tôi cũng không tùy tiện sửa đổi của người. Vật phẩm cũng như thế, trọng ở chỗ thực dụng rộng rãi. Tôi không nhất định đòi dùng đồ nghệ thuật chạm trỗ tinh vi – Như tượng Phật ở Phật Quang Sơn đều không phải loại điêu khắc bằng vàng, bạc, gỗ, đá mà là bằng xi-măng. Nhưng bên ngoài trang nghiêm đạo mạo, hoàn toàn có thể phát khởi tín tâm, đạo niệm của tín đồ, nhân đây mỗi năm thiện nam tín nữ đến đây triều bái vượt quá mấy ngàn vạn người trở lên.

Tôi nhớ nhiều năm về trước, lúc đi Ấn Độ, từng thấy một cặp lồng đèn bằng đá Đại Lý điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ, trị giá hơn 10 vạn Đài tệ. Từ Huệ đảm nhiệm chức Viện trưởng Đô Giám Viện ở Phật Quang Sơn rất vừa ý, xin tôi mua về trang trí điện Phật. Tôi hỏi cô ta:

– Con sợ Phật Quang Sơn không có vật gì cho mấy tên trộm nhỏ ham muốn chăng ? Con làm việc lâu như thế, chẳng lẽ không biết Phật Quang Sơn tuy nhiều điện đường như thế, nhưng Thầy xưa nay đều không lo lắng có người khởi tâm ăn trộm. Con có bao giờ nghĩ đến nguyên nhân tại sao không ?

Từ Huệ bỗng nhiên đại ngộ. Nhiều năm sau cô bàn đến việc này, thường bảo với mọi người. Cô theo đây học được “trí tuệ” khéo dùng nhân duyên. Một người khéo biết nhân quả, không những chính mình không gieo nhân ác, mà còn biết suy nghĩ chu đáo, không để người khác gieo nhân ác, do đó chẳng sanh ra quả báo ác.

Tôi chẳng những không tiêu món tiền đắt đỏ để mua đồ dùng, khí cụ; thậm chí Phật Quang Sơn rất nhiều bàn ghế làm việc đều là từ những đồ vật cũ của những cửa hàng công ty của người khác đóng cửa khuân về, có một số đồ dùng trong nhà thì là tín đồ đào thải đổi mới mà bỏ đi không dùng, chúng tôi chọn về sử dụng đến nay. Đồ dùng của chúng cố nhiên như thế, đồ dùng tư nhân cũng vậy, dù cho một chiếc đũa, một cái chén, nó cũng có mạng sống, tôi cũng dùng đi dùng lại cho đến cùng, để sinh mạng của nó kéo dài. Thậm chí Phật Quang Sơn có trên trăm ức kinh phí kiến thiết, tôi cũng chưa hề mua cho mình một cái bàn làm việc, không phải tôi không biết xài tiền, nhưng tôi không tiêu tiền cho chính mình. Lúc Phật Quang Sơn kiến thiết thời kỳ đầu, không có kiến trúc sư, không có văn phòng làm việc, tôi và thầu khoán Tiêu Đỉnh Thuận đều đứng trên đường so tay vẽ chân một phen, từng tòa, từng tòa kiến trúc bèn hoàn thành. Nguyên tác làm việc của tôi là : Dùng “tâm” để thành tựu tất cả, mà không cần dùng tiền bạc sắp xếp tất cả.

Tiết kiệm là “trí tuệ”, nhẫn nại là “trí tuệ”, khéo xử lý là “trí tuệ”, có thể nắm lấy cương lãnh của muôn vật trên thế gian, hóa rối rắm thành đơn giản, vận dụng tự tại, có thể để chúng dùng, chính là một loại “trí tuệ”.

Người hiện đại, những vật phẩm nào không dùng, dù có tâm thái yêu tiếc, đem cất vào kho, tôi cũng thấy lãng phí, vì một khi cho vào kho rồi, chẳng còn nghe hỏi đến, vật còn tốt cũng như phế vật. Do đó tôi chủ trương không sắp đặt kho lắm, vì chỉ cần anh biết vận dụng, đồng nát sắt vụn cũng đều có thể dùng vào việc lớn. Do đó trên cơ bản, ở thế gian không có vật đáng bỏ. Nếu như chính mình không xài, thì có thể để người khác sử dụng, đó là một loại khảo nghiệm “trí tuệ”.

Tôi thường nghĩ : Nếu như một trăm người đến, trong đó có thể có một người biết được cái hay đẹp của Phật pháp, và đem diệu pháp trở về với gia đình, mang đến cho xã hội, quốc gia, chẳng những là phước của Phật giáo, cũng là phước của đại chúng. Do đó, tôi không cần dùng tiền bạc cân nhắc tất cả sự việc, nhất là Phật pháp là cái vô giá, chúng ta nên lưu thông rộng rãi, để mọi người hiểu được cách dùng trí tuệ đến trang nghiêm thế giới này.

Xã hội hiện tại, mọi người mở miệng ngậm miệng đều là tiền, thậm chí báo chí truyền bá cũng thường suy đoán xem ai có tiền, ai không có tiền. Ở Phật Quang Sơn cũng nhân đây thường mắc nạn cá ao, như mấy năm trước có người tính xem nhà cửa đất đai của Phật Quang Sơn có bao nhiêu, về sau lại có người đem tài sản của đoàn thể tôn giáo xếp tên, kết quả Phật Quang Sơn trố mắt ra mà nhìn. Kỳ thực, chẳng kể Phật Quang Sơn có tiền hay không tiền, kiến thiết của Phật Quang Sơn đều không phải là dùng tiền bạc mà xây cất, cũng không phải là của cá nhân, mà là của vạn vạn ngàn ngàn người Phật Quang cùng có, là cái dùng sự thành tâm, trí tuệ, lao lực của họ xây dựng nên. Do đó tôi biết rằng : Từ Phật Quang Sơn cho đến nhìn tất cả sự nghiệp đoàn thể, chẳng cần nhìn tiền có nhiều ít, nên nhìn phần tử hợp thành dùng trí tuệ của họ làm được bao nhiêu việc, thành tựu bao nhiêu công đức. Thử hỏi sự phát tâm của họ có thể tính đến cùng tận không?

Trước mắt, giới ngoại giao có nói “tiền bạc ngoại giao”, giới công thương có nói “tiền đẻ ra tiền”, trong xã hội có câu “chủ nghĩa thờ tiền”, trên quốc phòng cũng chủ trương tiêu bao nhiêu tiền để mua vũ khí. Kỳ thực ngoài “tiền bạc ngoại giao” ra, chúng ta lại có thể vận dụng “trí tuệ” để tiến hành văn hóa ngoại giao, tôn giáo ngoại giao. Ngoài “tiền đẻ ra tiền”, chúng ta phải nghĩ đến sự trưởng thành của kinh tế chỉ là một chỉ tiêu của sự giàu có. Nâng cao phẩm chất của đại chúng, đề cao trình độ trí tuệ của nhân dân mới là cái trọng yếu nhất. “Chủ nghĩa thờ tiền” đã mang đến tai họa vô cùng cho xã hội; truyền bá quan niệm giá trị chính xác cho đời sau, để bọn họ đều đầy đủ trí tuệ xử thế làm người, mới là việc làm gấp. Mua sắm vũ khí tự vệ thật là trọng yếu, nhưng cái trọng yếu hơn là tư tưởng quan niệm bảo vệ quốc gia, cho đến toàn thể quốc dân đều phải có đủ trí tuệ lâm nguy bất loạn, bền bỉ bất khuất. Bởi vì cái có thể đánh ngã chúng ta không phải là người khác, mà là sự ngu xuẩn tự lợi của mình. Như nay, ở trong hiệu ứng mũi nhọn của kinh tế suy thoái, ở hiện tiền thế cuộc chiến tranh loạn lạc khắp nơi, hy vọng mọi người truyền bá quan niệm “dùng trí tuệ thay thế tiền bạc”. Tiền bạc cố nhiên khẩn yếu, trí tuệ càng trọng yếu hơn, để dân chúng của chúng ta không vì sự có – không của tiền bạc mà lay động chí tiết, để xã hội của chúng ta có trí tuệ cao hơn để khảo nghiệm khi đối diện với nguy nan.

Trích trong “Tinh Vân bách ngữ” – Đại sư Tinh Vân (Hạnh Huệ soạn dịch, 2001)