Tính giáo dục của Đạo Phật trong Tỳ Ni Sa Di – Oai nghi Cảnh sách

Tính giáo dục của Đạo Phật trong Tỳ Ni Sa Di – Oai nghi Cảnh sách

Xưa cũng như nay, đạo đức chuẩn mực hành vi luôn được đánh giá cao trong đối nhân xử thế và sự nghiệp. Ở ngoài đời có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nghĩa là người học trò mới vào trường, trước phải học lễ nghi phép tắc, sau đó mới học chữ nghĩa văn chương. Lễ là đức cả cần phải học như câu “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Nếu gia đình và nhà trường luôn uốn nắn, dạy dỗ một đứa trẻ nên người, tương lai chắc chắn đứa trẻ ấy sẽ đem lại những giá trị lợi ích cho xã hội, đơn thuần là một công dân tốt cho xã hội, đất nước.

Ngày nay, tuy chuẩn mực hành vi con người không phải là cái gì quá khắt khe để đưa vào chương trình giáo dục trong gia đình và nhà trường, nhưng vẫn là thước đo về nhân phẩm đạo đức của một cá nhân trong giao tiếp xã hội và giúp sự nghiệp thăng tiến bền vững. Chính vì vậy, ngoài gia đình là nơi giáo dục đạo đức quan trọng nhất, người ta có thể tìm đến sách vở dạy nuôi dưỡng tâm hồn và các khóa học kỹ năng mềm để phát triển bản thân. Cái quan niệm dân gian “cha mẹ nếu không dạy được con cái thì lớn lên ra ngoài xã hội sẽ dạy cho”, mà bài học bên ngoài xã hội thì rất khốc liệt bởi những thăng trầm, đầy biến động trong cuộc đời mỗi con người. Cho nên, sống ở đời ai mà không sợ khổ, ai mà không muốn mình hạn chế cái lỗi sai trong cuộc sống ở mức thấp nhất có thể, để được hạnh phúc, bình yên. Cho nên, trước hay sau gì thì nề nếp gia phong, lễ nghĩa thuận hòa, kính trên nhường dưới, kinh nghiệm để đời của người đi trước luôn được coi trọng trong xã hội.

Trong Đạo Phật cũng vậy, rất coi trọng nội quy phép tắc sinh hoạt hằng ngày. Mỗi cơ sở tu hành lấy giới luật làm giềng mối kỷ cương, trật tự trong đời sống tập thể, xây dựng nền mống vững chắc để truyền thừa mạng mạch Phật pháp cửu trụ trên thế gian, trong thời kỳ được cho là “Phật pháp suy đồi, nhân tâm giải đãi” như hiện nay. Xưa nay Tăng Ni Phật tử khi mới bước chân vào đạo đã được dạy phép tắc, đạo đức chuẩn mực hành vi để trang nghiêm tự thân và tránh mắc lỗi không hay. Trong hệ thống giới luật Phật giáo, Luật “Tỳ Ni Sa Di – Oai nghi Cảnh sách” dành cho người mới bước chân vào đạo là một cẩm nang dạy đạo đức cơ bản nhất.

Trong các thiên (chương) oai nghi của người xuất gia quy định việc học tập oai nghi chững chạc, tức là tác phong hạnh kiểm phải đàng hoàng đứng đắn. Những pháp thiết yếu hằng ngày – “Tỳ Ni nhật dụng thiết yếu” của người xuất gia tu hành như : ăn, mặc, ngủ, lao động, tụng kinh, ngồi thiền, lễ lạy, giao tế, hội họp, phân xử, .v.v. giúp cho chúng ta làm việc gì cũng đều có mực thước, khuôn phép, làm cho đời sống tập thể hòa hợp, Phật pháp được tồn tại lâu dài ở đời. Muốn hạnh tốt đầy đủ, giới đức oai nghiêm “hữu oai khả úy, hữu nghi khả kính” (có oai thì đáng sợ, có nghi thì đáng kính) phải hành trì tịnh giới, như thế mới thật có đạo phẩm của người tu. Đồng thời, nhiếp phục được thân, miệng, ý nghiệp, chế phục được các hành vi xấu ác, nương theo Pháp và Luật của Phật để đoạn trừ cội gốc phiền não và biến dịch sanh tử.

Trong Tỳ Ni nhật dụng thiết yếu có 45 bài kệ để nhiếp tâm hành trì mỗi ngày. Thiên oai nghi có 24 điều quy định phải tuân thủ giữ gìn ba nghiệp trong sạch, một khi đã thuần phục rồi thì tự khắc thân tâm nghiêm chỉnh, kỹ lưỡng, khéo léo mà không phải là giả trân giả dạng gì cả. Người thế tục khác người xuất gia là chỗ này. Nếu nói giới luật nhà Phật nhiều quá không kham nhớ giữ nỗi thì xem như chưa thể thành người xuất gia, không thể nhận người khác lễ lạy cung kính được, bởi vậy mới có câu “khó tu hay tu khó” là vậy.

Trong sách Luật học toát yếu do Thích Minh Chánh biên soạn có ghi rằng, nếu một vị xuất gia làm tăng có giới đức oai nghiêm khiến người khả kính “khí thanh cao như sao sáng người, oai nghiêm tịnh tợ gió tan mây, trong tâm chứa đức như sư tử, ngoài thân hiện oai tượng vương, được nhơn thiên khen ngợi và quỷ thần khâm phục”, mới hiểu công đức của việc trì tịnh giới lớn lao thế nào.

Quy tắc chuẩn mực đạo đức trong Luật “Tỳ Ni Sa Di – Oai nghi Cảnh sách” của Phật giáo đảm bảo có đầy đủ các yếu tố xây dựng con người đạo đức nhân văn, đầy đủ các đức tính của một con người hoàn thiện : từ, bi, hỷ, xả, trí và dũng.

Tính tự giác, tự kỷ luật

Trong đời sống hằng ngày, người xuất gia được yêu cầu phải tuân thủ giờ giấc sinh hoạt, tinh thần tự giác cao, không giải đải biếng nhác, không để các căn buông lung theo tội ác. Người tu phải xác định được mục đích trên đạo lộ tu hành, giữ được giới đức thanh tịnh sẽ tránh khỏi quả báo nhiều đời và hưởng được phước lạc an vui. Mỗi ngày trong bài công phu sớm tối đều nhắc nhở người tu hành phải ý thức quý tiếc thời gian trôi qua nhanh mà gia công luyện tập :

“Thị nhật dĩ quá, mạng diệc tùy giảm,
Như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc.
Đại chúng đương cần tinh tấn, như cứu đầu nhiên;
Đản niệm vô thường, thận vật phóng dật”.

(Ngày nay đã qua, mạng sống cũng giảm,
    Như cá ít nước, có vui sướng gì?

Đại chúng hãy siêng tinh tấn, như cứu lửa cháy dầu
    Chỉ nghĩ vô thường, không nên phóng dật)

Đồng thời, tính tự giác đi đôi với tự kỷ luật. Người tu hành buộc phải kiểm soát lời nói, tư tưởng và hành vi, không trái với giới luật Phật chế, phải biết phản ứng với các vấn đề tiêu cực một cách có lý trí, không để bản năng sai khiến dung túng hành vi, tránh những cám dỗ và luôn nhớ

hành động theo hướng tích cực. Chẳng hạn, lúc ăn chú nguyện đều phải cung kính khởi Tam đề, Ngũ quán; học Luật trước mới học Kinh sau không được trái vượt thứ bậc; hay khi nhặt của rơi nên trình cho vị quản lý biết; nếu có phạm tội lỗi thì phải liền đến gặp tôn sư xin sám hối, tự trách tâm chừa bỏ không tái phạm,v.v.

Lễ độ khiêm cung

Các điều luật Phật quy định tuổi Đạo quan trọng hơn tuổi đời, thứ bậc dựa vào tuổi đạo của vị tỳ kheo (tỳ kheo ni), kính trên nhường dưới, tôn ti trật tự để tránh mất đoàn kết, hòa hợp. Người dưới phải tôn kính người trên, người trên phải từ bi, độ lượng và nghiêm túc với người nhỏ tuổi đạo hơn mình.

Sự khiêm cung lễ độ cũng hiện rõ trong đời sống thường ngày, chẳng hạn như ăn một bữa cơm, mặc một cái áo, uống một chén nước đều luôn không quên ơn Phật pháp và đàn việt mà khởi niệm tri thức; như khi đi đứng ngồi phải biết thi lễ cúi đầu đứng một bên khi gặp nhị bộ Đại Tăng đi qua; như khi được tặng cho vật chi cũng đảnh lễ tri ân mới nhận, nếu thứ gì mình đã có rồi không nhận nữa tránh sanh tâm tham; nếu có người bệnh thì nên khởi tâm từ săn sóc từ đầu đến cuối; không được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc mà mình tránh nhác cầu an cẩu thả,.v.v. Trong Phật sự, làm việc gì trước nghĩ tới Tam bảo, không nghĩ cho bản thân, phải làm phát sanh và tăng thêm tín tâm cho tín đồ Phật tử.

Tránh xung đột tập thể

Trong giới luật Phật giáo có quy định rõ về cách Yết-ma, phép tắc sám hối tội lỗi gây ra. Phạm giới điều nào thì có nhiều cách sám hối được quy định rõ trong Luật của tầng bậc người xuất gia, thể hiện sự kỷ luật trong môi trường tu tập của một đoàn thể.

Phật dạy lấy phép tắc Lục hòa cộng trụ (6 phép hòa kính) trong đời sống tập thể : thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân. Phép Lục Hoà làm nền tảng cho sự đoàn kết nội bộ, cho sự thăng tiến của tổ chức.

Không được vì việc nhỏ mà tranh chấp, phải giữ tâm ôn hòa, lấy lí lẽ thảo luận, nếu không được thì từ từ mà đi, không được động khí phát thô cãi lẫy om sòm, đó mới là người có phẩm hạnh đạo đức.

Văn minh giao tiếp

Giao tiếp văn mình là lễ nghi – nghi thức trong cách nói chuyện, hành động mà thể hiện lời nói, lòng tận tâm của mình dành cho đối phương bằng ngôn ngữ và thái độ hài hòa, chuẩn mực.

Các điều luật Phật chế nhấn mạnh sự tự ý thức làm gương cho người khác noi theo, khéo léo trong cách sinh hoạt hằng ngày bằng cách điều chỉnh suy nghĩ, lời nói, hành động có mực thước theo các điều luật định. Một vị thiền sư có câu nói nổi tiếng “hãy tiếp khách như khi ở một mình, khi ở một mình cũng giống như lúc tiếp khách” – có ý nghĩa đời sống có khuôn phép tinh tế sẳn rồi, không cần phải hoa ngụy với người khác.

Chẳng hạn, không được coi tướng hình dáng mà cười, không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ, ợ ngáp; khi uống trà nước gặp khách đến, không được một tay cầm tách còn một tay thi lễ, mà phải để tách trà xuống, hai tay chắp lại mới thi lễ; không được dùng lời thô ác mà trêu chọc nhau, không được bày cho người nói lời không tốt.

Điềm đạm trong khi ăn uống, trong luật ghi rõ khi ăn phải chú nguyện biết ơn, không ăn quá nhanh hay quá chậm, ăn vừa đủ, không khua chén bát khi ăn, không nhai thức ăn ra tiếng cũng như không được đi hay đổi chỗ khác khi đang ăn, không trò chuyện nói cười giỡn khi ăn,…cho thấy sự tinh tế, nhẹ nhàng, ổn định của người tu hành.

Khi đi cũng vậy, đi đứng khoan thai, không được kéo lê giày dép ra tiếng, mặc đồ xong tử tế rồi mới bước đi. Đối với người bậc trên, khi tiếp chuyện không được đứng đối diện, đứng chỗ cao hay quá xa, nên đứng phía sau hoặc hai bên cạnh vị đó, khi được mời ngồi mới được ngồi. Khi ngồi không được kiểng chân, cong mình, duỗi chân hay chồm hổm, ngồi ngay ngắn. Ngay cả những vấn đề tế nhị như ợ ngáp nên lấy tay che miêng, khi đi vệ sinh cũng nên gõ cửa 3 lần xem có người trong đó hay không.

Nói chung giới luật nhà Phật đầy đủ phép tắc đào luyện một cá nhân hoàn thiện về đạo đức phẩm hạnh. Nếu mỗi cá nhân chấp hành đúng và đủ thì lợi ích cho bản thân và cả tập thể rất lớn lao. Giới luật nhà Phật có tính giáo dục chuẩn mực đạo đức cho cá nhân và tập thể, là điều rất đáng học hỏi và tôn trọng giữ gìn.

Nhìn chung, để duy trì trật tự xã hội cần thượng tôn pháp luật, để ổn định thế hệ kế thừa Phật pháp phải có giới luật Phật chế định. Trong Tam Vô Lậu học (Giới, Định, Tuệ) thì giới học là môn học quan trọng nhất. Bởi vì giới thể có trong sạch thì Tâm mới Định. Tâm có Định thì Trí huệ mới sáng suốt. Trí có sáng thì mới giác ngộ mà giải thoát. Vì vậy Tam vô lậu học phải tinh nghiêm, đặng giữ gìn giới thể, giữ luật pháp như giữ tròng con mắt, và còn giữ cho sự sinh hoạt trong đoàn thể mình được trật tự nghiêm chỉnh.

Diệp Thiên